Hướng dẫn này cung cấp tổng quan về Môi trường Dữ liệu Chung (CDE) và quy trình quản lý thông tin ISO 19650. Hướng dẫn này nhằm mục đích chắt lọc các khái niệm, nguyên tắc và quy trình chính và giải thích chúng một cách đơn giản cho bạn. Cho dù bạn là chủ sở hữu hay nhà điều hành tài sản, nhà tư vấn hay nhà thầu, khách hàng hay hội đồng quản trị, chúng tôi tin rằng hướng dẫn này sẽ hữu ích.
Trước tiên, bạn sẽ được giới thiệu những kiến thức cơ bản về bộ tiêu chuẩn ISO 19650: Ai là người phát triển tiêu chuẩn, lý do thành lập và những nội dung chính của bộ tiêu chuẩn.
Cách đây không lâu, "quản lý thông tin" đồng nghĩa với những tủ hồ sơ chất đầy tường và "hợp tác" chỉ là một chiếc máy fax cồng kềnh và một chiếc bút dạ màu đỏ đáng tin cậy.
Các công cụ và công nghệ mới chắc chắn đã thay đổi ngành công nghiệp. Các tài sản xây dựng giờ đây có thể được thiết kế, bàn giao, vận hành và bảo trì bằng cách sử dụng các mô hình BIM 3D liên kết và các bản sao kỹ thuật số giàu thông tin.
Tuy nhiên, cùng với những quy trình BIM mới này, những thách thức mới cũng xuất hiện. Cụ thể là về cách thức tạo ra, phối hợp và trao đổi thông tin.
ISO 19650 và thuật ngữ môi trường dữ liệu chung (CDE) đã phát triển để cung cấp một khuôn khổ thực hành tốt nhất quốc tế về cách thức quản lý thông tin trong toàn bộ vòng đời của một tài sản hoặc dự án xây dựng.
Môi trường dữ liệu chung (CDE) là một nền tảng hoặc nhóm các giải pháp CNTT tích hợp cung cấp kho lưu trữ tập trung để thu thập, quản lý và phổ biến thông tin về dự án và tài sản thông qua một quy trình được quản lý.
Nói một cách đơn giản, CDE là một môi trường hợp tác, nơi tất cả các bên liên quan trong một dự án hoặc tài sản cùng làm việc và chia sẻ thông tin. CDE rất cần thiết cho việc triển khai hiệu quả các quy trình và công nghệ BIM. Mục đích của môi trường dữ liệu chung và ISO 19650 là đảm bảo đúng người làm việc với đúng thông tin vào đúng thời điểm. Cuối cùng, các tài sản và dự án được xây dựng như vậy sẽ được bàn giao đúng hạn, trong phạm vi ngân sách và đạt tiêu chuẩn.
CDE đại diện cho cả công nghệ (giải pháp CDE) và quy trình (quy trình làm việc CDE).
Khái niệm CDE lần đầu tiên được thiết lập trong BS 1192:2007, một tiêu chuẩn quản lý thông tin của Anh đã được phát triển bởi Tập đoàn BSI. CDE sau đó đã phát triển thông qua PAS 1192-2:2013 của Anh (cũng đã được thay thế) và gần đây hơn là loạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 19650.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy cập thông tin mới nhất, cập nhật nhất trong một môi trường tập trung
Thông tin dự án được quản lý trong một môi trường được kiểm soát và bảo mật, đảm bảo đúng người có quyền truy cập đúng thông tin vào đúng thời điểm
Thông tin đúng có thể dễ dàng truy cập bởi tất cả các nhóm phù hợp, bất kể vị trí hay thiết bị: ví dụ: tại chỗ bằng thiết bị di động
Dấu vết kiểm toán về việc phát triển và trao đổi thông tin được ghi lại trong suốt quá trình bàn giao và vận hành tài sản đã xây dựng
Thông tin được phát triển dần dần thông qua một quy trình được quản lý (Quy trình làm việc CDE), với các quyền được kiểm soát tương ứng
Thông tin được phối hợp và tái sử dụng giữa các bộ phận và nhóm, giảm thiểu xung đột, làm lại và trùng lặp
Sự hợp tác chặt chẽ hơn được tạo điều kiện thuận lợi giữa các bộ phận và nhóm, thay vì làm việc riêng lẻ (các kho thông tin)
Thông tin được xác định rõ ràng bằng các tiêu chuẩn chung và siêu dữ liệu liên quan (thuộc tính)
ISO 19650 sử dụng thuật ngữ “Container thông tin” để chỉ các tệp, mô hình, tài liệu hoặc tập dữ liệu, v.v.
Một Container thông tin có thể là cả thông tin có cấu trúc (mô hình hình học, lịch biểu và cơ sở dữ liệu) và thông tin phi cấu trúc (báo cáo, tài liệu và đa phương tiện). Mỗi bộ chứa thông tin (tức là tệp hoặc tập hợp thông tin) phải có một ID duy nhất (tức là tên tệp) để đảm bảo thông tin có thể dễ dàng nhận dạng và truy xuất từ CDE. Điều này sẽ tuân theo một quy ước đã được thống nhất và ghi chép lại, bao gồm một hoặc nhiều trường, được phân tách bằng dấu phân cách. Trong đó, mỗi trường được gán một giá trị từ một tiêu chuẩn mã hóa đã được thống nhất và ghi chép lại, chẳng hạn như Uniclass 2015.
Các khuyến nghị cho các công ước này có thể được nêu trong phụ lục quốc gia của bạn. Ví dụ, phụ lục quốc gia BS EN ISO 19650-2 của Vương quốc Anh khuyến nghị định dạng sau:
Project – Originator – Functional Breakdown – Spatial Breakdown – Form – Discipline – Number Identifier
Liên kết bao gồm việc kết hợp nhiều bộ chứa thông tin (tức là các mô hình BIM) thành một mô hình thông tin thống nhất. Một mô hình liên kết có thể bao gồm các bộ chứa thông tin từ các bên, nhóm và/hoặc chuyên ngành khác nhau.
Môi trường dữ liệu chung hỗ trợ liên kết mô hình bằng cách cho phép phối hợp thông tin được kiểm soát và an toàn giữa các mô hình và nhóm khác nhau.
Theo ISO 19650, các nhóm triển khai được yêu cầu đề xuất một chiến lược liên kết như một phần của Kế hoạch Thực hiện BIM (BEP) của họ. Chiến lược liên kết này xác định phương pháp được đề xuất để chia nhỏ mô hình thông tin thành một hoặc nhiều đơn vị có thể quản lý được.
Lợi ích của Liên kết Mô hình:
Quy trình làm việc CDE mô tả quy trình được quản lý thông qua đó thông tin được tạo ra, chia sẻ và trao đổi trong giải pháp CDE.
Quy trình làm việc CDE lần đầu tiên được thiết lập trong tiêu chuẩn BS 1192:2007 của Vương quốc Anh và sau đó được phát triển trong tiêu chuẩn PAS 11920-2:2013, và gần đây hơn là tiêu chuẩn ISO 19650.
Quy trình làm việc là một quy trình trong đó thông tin được kiểm soát trên 4 trạng thái:
Môi trường dữ liệu chung (CDE) là một môi trường cộng tác để các bên liên quan thu thập, quản lý và phổ biến thông tin dự án và tài sản thông qua một quy trình được quản lý.
Các khái niệm và nguyên tắc của CDE được thiết lập trong BS 1192:2007, sau đó được phát triển trong PAS 1192 và gần đây hơn là ISO 19650. CDE đại diện cho cả giải pháp CDE - một nhóm các hệ thống CNTT tích hợp - và quy trình làm việc CDE - một quy trình được kiểm soát và đóng dấu để phát triển và trao đổi thông tin.
Mục tiêu của CDE là cung cấp một nền tảng cho việc sản xuất và trao đổi thông tin cộng tác hiệu quả và hiệu suất theo tiêu chuẩn ISO 19650. CDE đảm bảo đúng người làm việc trên đúng thông tin vào đúng thời điểm. Cuối cùng, các tài sản và dự án được xây dựng như vậy sẽ được bàn giao đúng hạn, trong phạm vi ngân sách và đạt tiêu chuẩn. Cũng như cho phép các bên liên quan đưa ra quyết định nhanh hơn, dễ dàng hơn và chính xác hơn trong suốt vòng đời tài sản.